Kiền trùy (
tiếng Phạn: ghaṇṭā) là cái chuông nhỏ và là nhạc cụ quan trọng không thể thiếu trong nghi lễ Phật giáo
Tantra. Tiếng chuông được cho là mang lại điềm lành, xua đuổi tà ma khỏi nơi đang cử hành nghi lễ. Trong các nghi lễ Phật giáo, kiền trùy được dùng cùng cặp với
kim cương chử, trong đó kiền trùy là biểu tượng của
Trí huệ - yếu tố Nữ,
Kim cương chử (vajra) tượng trưng cho
Từ bi - yếu tố Nam (có học giả cho rằng kiền trùy là biểu tượng của
sinh thực khí nữ còn
kim cương chử (vajra) tượng trưng cho
sinh thực khí nam[1]). Để đạt được
giác ngộ, hai yếu tố này phải được kết hợp với nhau. Kiền trùy được hình dung như thân của Phật, kim cương chử như
tâm của Phật, còn tiếng chuông như lời Phật đang giảng
pháp. Âm thanh ngắn, ngắt đoạn của tiếng chuông còn có nghĩa nói lên rằng, mọi vật đều là phù du, chóng qua.Kiền trùy có thể có độ cao từ 3 đến 20 lần
chiều rộng ngón tay. Đáy kiền trùy hình tròn, gắn phía trên là hình khuôn mặt Bồ Tát
Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita). Trên nữa là một hình hoa sen, một đĩa Mặt Trăng và trên cùng là một hình kim cương chử(vajra). Trong
tiếng Phạn, kiền trùy có gắn hình kim cương chử tại cán chuông được gọi là vajraghanta (chuông kim cương). Lòng chuông tượng trưng cho
Trí huệ đang trực nhận
tính không. Hạt chuông tượng trưng cho âm thanh của
tính không. Tám cánh hoa sen là bốn người mẹ và bốn vị
bồ tát. Tận cùng của kiền trùy có thể là hình một thiền trượng, hoặc là hình một
stupa nhỏ hoặc là viên ngọc ba mặt (cintamani)Chuông thường không xuất hiện như những tùy khí hoặc biểu tượng của chư
Phật hoặc của những vị thần chính. Tuy nhiên, nếu một vị thần (
Sarasvati) đang cầm chuông thì có nghĩa đây là vị thần của
âm nhạc và học vấn. Các kiền trùy Phật giáo được các phái
Mật tông của tây Tạng,
Nepal và
Nhật Bản dùng trong các cuộc lễ.Trong các cuộc hành lễ Phật giáo
Tantra, vị Lạt-ma cầm một kim cương chử trên tay phải còn tay trái cầm chuông. Vị Lạt-ma sẽ hợp nhất chúng bằng cách gác chéo hai cánh tay trên ngực biểu thị tâm hồn giác ngộ, đó là sự hợp nhất của
trí huệ (nữ) và
từ bi (nam).Theo từ điển Hán-Việt
Thiều Chửu, kiền trùy (犍椎) còn là tên gọi chung cho các thứ như
chuông,
khánh,
mõ,
mộc bản đánh làm hiệu ở trong chùa.Có bảy loại chuông được biết, nó tùy thuộc vào hình dáng tay cầm: